TIN TỨC
Giới thiệu dự án
ENGLISH SCHOOLS – PHỔ CẬP NGÔN NGỮ QUỐC TẾ TRONGTHỜI KỲ HỘI NHẬP
“Học Ngoại ngữ bắt buộc là thông điệp cho toàn xã hội, rằng từ nay, ngoại ngữ quan trọng không kém Văn và Toán”
“Phó TT. Vũ Đức Đam”
I. TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ.
1. Vai trò của ngôn ngữ Quốc tế nói chung và Anh ngữ trong xu thế hội nhập.
- Trong xu thế hội nhập, ngôn ngữ quốc tế đóng vai trò hết sức quan trọng trên tất cả mọi lĩnh vực của các quốc gia: quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, truyền thông, du lịch, … Quốc gia nào có chính sách phát triển giáo dục đa ngôn ngữ quốc tế sẽ có nhiều cơ hội phát triển kinh tế đất nước và nâng cao trình độ văn hóa cũng như chất lượng cuộc sống của người dân. Không quá khi nói rằng phát triển giáo dục ngôn ngữ quốc tế là chìa khóa thành công cho đất nước trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa hiện nay. Và trong làng ngôn ngữ quốc tế, Anh ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng. Không chỉ là ngôn ngữ quốc tế được công nhận đầu tiên và lâu đời nhất của lịch sử loài người, mà bởi tính thông dụng của nó và được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn cầu.
- Trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ chung của mọi quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có gần 60 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, bên cạnh tiếng mẹ đẻ và gần 100 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Trong tất cả trong lĩnh vực từ kinh doanh, thương mại, văn hóa, truyền thông, du lịch, khoa học công nghệ,… tiếng Anh đều giữ vai trò là ngôn ngữ giao dịch chính thức. Vì vậy những người thành thạo tiếng Anh có thêm nhiều lợi thế cạnh tranh về khả năng chuyên môn cũng như có sự hội nhập tốt với thị trường lao động quốc tế.
2. Chủ trương của Đảng, Chính phủ và Bộ GD&ĐT.
Với xu thế toàn cầu ngày nay, bộ môn ngoại ngữ - phổ biến là Tiếng Anh đang trở thành một công cụ giao tiếp “quyền lực" có vai trò ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp và vị thế của mỗi con người trong xã hội. Vì thế, Đảng và Nhà Nước ta đã có mối quan tâm đặc biệt đến vấn đề dạy và học ngoại ngữ. Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTG, phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân”.
Đặc biệt trong bài phát biểu tại lễ tổng kết năm học 2013 – 2014 ngày 29/7/2014, Phó Thủ Tướng Vũ Đức Đam nói về tầm quan trọng của bộ môn ngoại ngữ: “ Học Ngoại ngữ bắt buộc là thông điệp cho toàn xã hội, rằng từ nay, ngoại ngữ quan trọng không kém Văn và Toán. Chúng ta không được quên là bây giờ Việt Nam thực chất là một bộ phận của nền kinh tế thế giới rồi. Chúng ta đảm bảo đào tạo con em chúng ta tới đây phải là công dân toàn cầu. Có những người ví von là bây giờ mà không biết Ngoại ngữ giống như ra trận mà không có súng”.
Cũng trong chương trình hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ, nhân chuyến thăm và làm việc của Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ tới Việt Nam ngày 14/08/2014, Bộ quốc phòng 2 nước đã kí kết và triển khai 5 nội dung hợp tác quốc phòng. Trong đó có điều khoản Bộ quốc phòng Mỹ hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực đào tạo tiếng Anh cho sỹ quan quân đội Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ ngoại ngữ không thể thiếu trong đời sống mỗi người dân chúng ta hiện nay, không chỉ với các em học sinh và sinh viên mà với toàn thể cộng đồng người dân Việt Nam. Bộ môn ngoại ngữ như là kim chỉ nam thúc đẩy nội lực để phát triển kinh tế đất nước và là công cụ để quảng bá văn hóa dân tộc ra thế giới trong thời kỳ hội nhập.
3. Thực trạng Anh ngữ Việt Nam hiện nay.
Trong khoảng 2 thập niên trở lại đây, nền giáo dục Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến giáo dục bộ môn ngoại ngữ. Ở thời kì đầu ngoại ngữ chỉ được xem như là một bộ môn phụ không bắt buộc trong nhà trường cũng như trong các kỳ thi. Nhưng trong những năm trở lại đây bộ môn Ngoại ngữ, mà đặc biệt là Anh văn được quan tâm và coi trọng hơn, ngoại ngữ được đưa vào các kỳ thi như là một bộ môn bắt buộc. Đặc biệt, hiện nay ngoại ngữ được đưa vào bộ môn chính trong hệ thống giáo dục nhà trường, quan trong ngang với Văn và Toán.
Như vậy, ngoại ngữ đang dần được đánh giá đúng với vai trò và tầm quan trọng của nó trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế đất nước.
Nhưng nhìn chung, việc học ngoại ngữ ở Việt Nam chúng ta hiện nay gần như chỉ diễn ra trong nhà trường và mục đích là để ứng phó với các kỳ thi cũng như nhu cầu xin việc làm. Ngoại ngữ ít được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, bởi chúng ta đang thiếu một môi trường giao tiếp năng động, người học chưa dám đưa vốn kiến thức học được ứng dụng ra cuộc sống, dần dần vốn kiến thức học được sẽ bị mai một và quên lãng.
Nhìn sang các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới, người dân của họ có thể sử dụng 2 đến 3 ngôn ngữ để làm phương tiện giao tiếp hàng ngày và họ có thể trò chuyện với người nước ngoài bằng một vài ngôn ngữ quốc tế, chứng tỏ nhiều quốc gia trên thế giới đã phổ cập rộng rãi ngôn ngữ quốc tế trước chúng ta hàng chục năm và có một môi trường giao tiếp năng động hơn chúng ta rất nhiều. Yếu tố đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc quảng bá văn hóa dân tộc và hình ảnh quốc gia tới bạn bè quốc tế.
4. Tầm nhìn chiến lược và sứ mệnh lịch sử.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam trong xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, con người, vừa tiếp thu các giá trị tiến bộ, tinh hoa của nhân loại, vừa phải bảo vệ và giữ gìn được bản sắc dân tộc. Nhân dịp nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, đã có bài viết gửi Báo Nhân Dân nêu rõ:
“Ở Việt Nam, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ đường hướng hoạt động và những nguyên tắc chặt chẽ trong việc tham gia tiến trình này. Chúng ta hội nhập quốc tế nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh, bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì thế, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực, khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả sức mạnh của toàn xã hội.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc đó, Đảng đã xác định văn hóa là một phần không thể tách rời trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Kế thừa những thành tựu của 15 năm thực hiện Nghị quyết T.Ư 5, khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Nghị quyết T.Ư 9, khóa XI về "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước" vừa được ban hành đã tái khẳng định mạnh mẽ vai trò của văn hóa trong hội nhập quốc tế, trong đời sống xã hội, cũng như trong những chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết đã khẳng định lại quan điểm: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học", một nền văn hóa phong phú đã đóng góp và đang tiếp tục đóng góp cho nhân loại không ít di sản văn hóa, nổi bật là tám di sản văn hóa phi vật thể độc đáo đã được UNESCO công nhận và đặc biệt là tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại thi hào Nguyễn Du là những danh nhân văn hóa của thế giới.
Từ những điều nêu trên, đòi hỏi trước tiên là phải xây dựng chiến lược con người, vì con người là trung tâm phát triển văn hóa. Con người xây dựng và làm phong phú nền văn hóa và văn hóa lại chính là môi trường loại bỏ "cái con", dung dưỡng "chất người" trong từng cá nhân và toàn xã hội. Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam và họ chính là người thể hiện đậm nét "chất Việt", giữ gìn bản sắc văn hóa rất riêng của dân tộc mình qua mỗi thế hệ. Giá trị con người Việt Nam được định vị từ cội nguồn dân tộc mà thang giá trị cao nhất là lòng yêu nước. Lòng yêu nước đó gắn chặt với lòng tự tôn, tự cường dân tộc; gắn kết cá nhân với gia đình, làng xã, Tổ quốc; gắn kết với các đức tính nhân ái, bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; thể hiện bằng sự hy sinh cao cả, tất cả vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, bằng đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động vì sự phồn vinh của đất nước. Nội lực của nền văn hóa chính là con người. "Cây văn hóa" có bám rễ sâu vào cuộc sống, vào lịch sử truyền thống dựng nước và giữ nước thì gốc mới bền, cành lá mới sum suê và hoa mới đậu thành trái ngọt. Vì vậy, quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đây là một nguyên tắc, là khâu trọng tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa như Hội nghị T.Ư 9, khóa XI đã chỉ rõ.
Như vậy, văn hóa phải xây dựng nền tảng cho việc mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, không chỉ trong kinh tế. Trong giao lưu văn hóa, ngay từ đầu ta đã thể hiện sự bình đẳng, ngang hàng của một nền văn hóa chính thống đã trải qua bao thăng trầm của hàng ngàn năm lịch sử, làm cho người ngoài không chỉ biết Việt Nam như một đất nước đang phát triển, anh dũng, kiên cường trong chiến tranh khốc liệt chống thực dân, đế quốc và bảo vệ Tổ quốc mà còn làm cho họ nhận thức được Việt Nam là một đất nước, một dân tộc, từ cội nguồn văn hóa lâu đời của mình, với kho tàng vô giá về tự nhiên và văn hóa, cả văn hóa vật thể và phi vật thể, luôn thấu hiểu sâu sắc ý nghĩa và giá trị nhân văn của hòa bình, của độc lập, tự do. Thông qua các hoạt động văn hóa, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam, từng bước tạo dựng lòng tin, đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.”
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta vận động toàn dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hưởng ứng và thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Công ty cổ phần Khoa Học Công Nghệ Trường Sinh định hướng xây dựng phát triển doanh nghiệp học tập và làm theo “ 5 Điều Bác Hồ Dạy”:
“5 ĐIỀU BÁC HỒ DẠY
Yêu Tổ Quốc, Yêu Đồng Bào
Học Tập Tốt, Lao Động Tốt
Đoàn Kết Tốt, Kỉ Luật Tốt
Giữ Gìn Vệ Sinh Thật Tốt
Khiêm Tốn Thật Thà Dũng Cảm”
Lời Bác dạy không chỉ giành cho thiếu nhi, học sinh, sinh viên mà cho toàn thể xã hội, không chỉ trong thời chiến mà trong cả thời bình, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hóa hiện nay. Trách nhiệm của toàn thể nhân dân Việt Nam là thực hiện lời chỉ dạy của Người là đóng góp công sức của mình để đưa đất nước Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới sánh bước cùng bè bạn Năm Châu.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa, ngôn ngữ quốc tế nói chung và Anh ngữ nói riêng trở thành phương tiện và công cụ để chúng ta phát triển kinh tế, quảng bá văn hóa dân tộc và nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với ước mơ đưa bộ môn Anh ngữ trở thành phương tiện giao tiếp thông dụng trong cuộc sống hàng ngày của người Việt, cũng như hưởng ứng chủ trương của Đảng, Chính phủ, Bộ GD&ĐT đưa bộ môn Ngoại ngữ phát triển lên một tầm cao mới. Bởi trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa thì Tiếng Anh không thể thiếu và yếu. Mà là nhân tố rất quan trọng trong công cuộc đổi mới quốc sách giáo dục và phát triển kinh tế đất nước.
Để hiện thực hóa ước mơ “Người Việt làm chủ ngôn ngữ trong cuộc sống”. Công ty cổ phần KHCN Trường Sinh đã nghiên cứu thành công và cho ra đời tác phẩm English Schools, nhằm phổ cập bộ môn Anh ngữ trong cộng đồng người Việt và thực hiện “5 Điều Bác Hồ Dạy” trong thời kỳ hội nhập. Đưa việc dạy và học Anh ngữ không chỉ là chuyện riêng của nhà trường với học sinh, sinh viên mà là nhiệm vụ của toàn thể cộng đồng người Việt Nam chúng ta. Biến Anh ngữ không còn là phương tiện giao tiếp xa lạ, mà trở nên gần gũi thân quen hơn với cuộc sống hàng ngày và phục vụ cho mục đích xây dựng và phát triển quốc gia.
II. LỘ TRÌNH ENGLISH SCHOOLS.
Khác với phương pháp học tiếng Anh truyền thống là chỉ có giáo viên và học sinh. Trong đó giáo viên có nhiệm vụ truyền đạt kiến thức đến với học sinh và những kiến thức mà học sinh tiếp thu được chủ yếu từ giáo viên, với phương pháp này người học khá thụ động và không phát huy hết năng lực của bản thân. Vì vậy, trong lộ trình phổ cập ngôn ngữ của English Schools, người học sẽ chủ động nắm bắt kiến thức, giáo viên chỉ là người hướng dẫn phương pháp tiếp cận bộ môn này và công ty sẽ xây dựng môi trường giao tiếp năng động, giúp người học vận dụng những kiến thức học được hàng ngày ra cuộc sống.
1. Kỹ năng tư duy ngôn ngữ hóa trong giao tiếp hiện đại.
Đây là bước đi đầu tiên và vô cùng quan trọng trong lộ trình của dự án. Để những kiến thức học được không bị mai một và được ứng dụng vào thực tế cuộc sống, tạo ra một môi trường giao tiếp bằng anh ngữ thực sự. Thì điều quan trọng nhất phải cho người học thấy rõ được tầm quan trọng của anh ngữ đối với họ. Có nghĩa là: Học Tiếng Anh cho ai? Học tiếng anh để làm gì? Học Tiếng Anh như thế nào? Học Tiếng Anh ở đâu? Để người học nắm rõ và xác định được tầm vóc của bản thân mình nếu như giao tiếp được thông thạo bằng tiếng anh.
Điều thứ 2 cũng không kém phần quan trọng, đó là môi trường để giao tiếp. Môi trường giao tiếp chính là điều kiện để phát huy tác dụng vốn kiến thức đã học ứng dụng vào cuộc sống thực tế. Và đây cũng là vấn đề nan giải ở Việt Nam hiện nay. Học Anh văn để giao tiếp ở đâu, với ai và khi nào? Đó chính là vấn đề mấu chốt của dự án là tạo ra một môi trường học tập, làm việc, giao tiếp ngôn ngữ năng động linh hoạt và thú vị. Biến bộ môn tiếng anh không còn là bộ môn bắt buộc trong học và thi mà là một bộ môn tự nguyện và tự học.
Đó chính là thay đổi nhận thức và tư duy về phương pháp và mục đích học bộ môn ngoại ngữ, để phù hợp với tư duy quốc tế hóa ngôn ngữ trong xu thế hội nhập.
2. Giải pháp học tiếng anh thông minh.
Một trong những giải pháp học tiếng anh thông minh nhất hiện nay là để người học tự làm chủ kiến thức của mình. Giải pháp đó chính là sử dụng máy học tiếng anh để tối ưu hóa kiến thức cho người học. Bởi vì máy học tiếng anh tạo được môi trường học tập năng động, linh hoạt:
Thứ nhất, máy học tiếng anh tạo ra một môi trường học tiếng anh hết sức thoải mái và thích thú, tạo điều kiện cho người học có cảm giác vừa học vừa chơi, tạo nên môi trường như được giao tiếp trực tiếp với người nước ngoài, vừa ôn bài vừa có thể nghe những bài hát, hay những câu chuyện cổ tích bằng tiếng anh vô cùng thú vị. Máy học tiếng anh tạo nên một môi trường học tập sinh động, lý tưởng, không gây buồn chán hay mệt mỏi căng thẳng cho người học.
Thứ hai, máy học tiếng anh là bách khoa từ điển toàn năng, không chỉ chứa đựng các kiến thức về tiếng anh như vốn từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, cách phát âm chuẩn, rèn luyện kĩ năng nghe nói mà người học có thể nghe đi nghe lại bài học cũng như có thể thu âm để so sánh giọng đọc của mình với giọng đọc chuẩn quốc tế. Ngoài ra, sản phẩm còn bổ trợ các kiến thức về các bộ môn khác như toán học, lịch sử, địa lý, tiếng việt, sinh học, … và các ca khúc tiếng anh ngộ nghĩnh, các trò chơi thú vị giúp học tiếng anh tốt hơn.
Thứ ba, với máy học tiếng anh làm cho bộ môn tiếng anh trở nên sinh động, không khô khan cứng nhắc, sẽ giúp người học có được niềm đam mê thích thú, học mà chơi, chơi mà học, phương pháp học bài dễ hiểu, dễ nhớ; không gây ra cảm giác căng thẳng, ép buộc. Đó chính là một trong những yếu tố tạo nên sự thích thú trong học tập, giúp người học đến với tiếng anh bởi niềm đam mê và hứng thú.
3. Lộ trình đào tạo Anh ngữ trong giao tiếp.
a. Anh ngữ giao tiếp phổ cập
Đây là chương trình phổ cập dành cho tất cả mọi người khi tiếp cận với công ty. Là nhân viên, hội viên, cộng tác viên về vốn kiến thức và phương pháp giao tiếp anh văn căn bản, giúp người học có thể giao tiếp tiếng anh một cách đơn giản nhất, dễ dàng nhất. Nội dung của phần này hướng tới cho học viên nắm bắt và giao tiếp vốn kiến thức thông thường, dễ học, dễ nói như: chào hỏi, giới thiệu … Bước đi này giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tạo ra môi trường để học viên làm quen dần với việc sử dụng ngôn ngữ tiếng anh trong giao tiếp.
b. Anh ngữ giao tiếp phổ thông.
Với chương trình này người học sẽ được tiếp cận với vốn kiến thức sâu rộng hơn, cả về chủ đề lẫn nội dung. Dành cho tất cả mọi đối tượng đến với công ty, nhưng đã trải qua khóa học phổ cập.
c. Anh ngữ giao tiếp chuyên nghiệp.
Chương trình chỉ phổ cập và ứng dụng cho các học viên đã trải qua chương trình giao tiếp phổ thông và có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ anh văn thông thường. Nội dung này sẽ được nâng cao hơn và các học viên sẽ được thay đổi môi trường giao tiếp năng động hơn. Giúp cho chúng ta có thể tự tin giao tiếp với người nước ngoài hoặc đi du lịch, hay công tác nước ngoài mà không cần phiên dịch.
4. Tạo ra môi trường giao tiếp năng động thực sự.
Mục đích cuối cùng mà tác phẩm hướng đến đó là tạo ra một môi trường giao tiếp anh ngữ năng động và linh hoạt. Bất kỳ nơi đâu người học có thể vận dụng anh ngữ để giao tiếp với thế giới quanh mình. Biến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn và thú vị với bạn bè quốc tế và cũng là cơ hội tốt để chúng ta hội nhập toàn diện hơn, sâu rộng hơn. Đưa anh ngữ trở thành một làn sóng mới trong làng ngôn ngữ Việt Nam. Hướng tới trong tương lai không xa Người Việt chúng ta sử dụng thêm ngôn ngữ quốc tế bên cạnh tiếng mẹ đẻ của mình.
III. TƯ DUY HIỆN ĐẠI VÀ KỸ NĂNG SỐNG TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
Bên cạnh vốn Anh ngữ được phổ cập, đến với công ty mọi người sẽ được đào tạo các khóa học kỹ năng về tư duy và ứng xử đối với cuộc sống hiện đại trong thời kỳ hội nhập. Các kỹ năng này sẽ giúp cho con người trở nên mạnh mẽ, tự tin, năng động và hoàn thiện hơn trong cuộc sống hiện đại.
IV.Ý NGHĨA NHÂN VĂN CỦA ENGLISHSCHOOLS
Trong xu thế ngày nay, ngôn ngữ quốc tế được xem là chìa khóa vàng để phát triển kinh tế và hội nhập toàn cầu hóa một cách sâu rộng. Và Việt Nam chúng ta đang đứng trước thời khắc lịch sử để biến nền kinh tế quốc gia trở thành con rồng lớn vươn mình ra thế giới. Vì thế việc phổ cập ngôn ngữ là điều đương nhiên và rất thuận lợi trong thời điểm hiện nay. Bởi trong quá khứ chúng ta đã rất thành công chương trình phổ cập giáo dục chống “giặc dốt – xóa mù chữ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau Cách Mạng Tháng 8 năm 1945, biến một dân tộc mù chữ trong chính sách “ngu để trị” của thực dân Pháp và phát xít Nhật, trở thành một dân tộc hào hùng bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Sau Cách Mạng Tháng 8 năm 1945, đất nước chúng ta chìm trong muôn vàn khó khăn, cùng một lúc phải đối diện với 3 loại giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong 3 loại giặc đó, thì giặc dốt là loại giặc cực kỳ nguy hiểm, bởi Người nhận định một dân tộc dốt thì dân tộc đó không thể giàu mạnh. Và Người đã đưa ra phong trào “Bình dân học vụ”, chỉ trong một thời gian rất ngắn đã xóa được mù chữ cho toàn dân Việt Nam chúng ta thời bấy giờ, đẩy lùi giặc dốt để làm nền tảng cho phong trào diệt giặc đói và giặc ngoại xâm thành công.
Phong trào Bình dân học vụ là bài học thành công muôn đời để chúng ta noi theo và phát huy làm bài học cho việc đổi mới và phát triển nền giáo dục nước nhà.
Ngày nay, để phát huy tinh thần học tập và làm theo Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cần thực hiện triệt để 5 điều Bác đã dạy. Và English Schools ra đời trong bối cảnh đất nước ta đang trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu hóa, chủ trương của Đảng, Chính phủ, Bộ GD&ĐT đẩy mạnh giáo dục bộ môn ngoại ngữ là một trong những nhân tố trọng tâm đổi mới giáo dục và làm đòn bẩy cho việc phát triển nền kinh tế đất nước. English Schools ra đời mong muốn được góp một phần công sức nhỏ bé trong phong trào phổ cập ngôn ngữ quốc tế cho toàn dân của Đảng và Nhà nước đã đề ra và làm theo “5 Điều Bác Hồ Dạy”
|
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 1400/QĐ-TTg |
Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2008 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN "DẠY VÀ HỌC NGOẠI NGỮ TRONG HỆ THỐNG
GIÁO DỤC QUỐC DÂN GIAI ĐOẠN 2008 - 2020"
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005 và Nghị định số 75/2006 NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Phê duyệt Đề án "Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020" với những nội dung chính như sau:
I. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Triển khai thực hiện chương trình giáo dục 10 năm, bắt đầu từ lớp 3 môn ngoại ngữ bắt buộc ở các cấp học phổ thông. Từ năm 2010 - 2011 triển khai dạy ngoại ngữ theo chương trình mới cho khoảng 20% số lượng học sinh lớp 3 và mở rộng dần quy mô để đạt khoảng 70% vào năm học 2015 - 2016; đạt 100% vào năm 2018 - 2019;
b) Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục nghề nghiệp cho khoảng 10% số lượng học sinh dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp vào năm học 2010 - 2011, 60% vào năm 2015 - 2016 và đạt 100% vào năm học 2019 - 2020;
c) Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục đại học (cả các cơ sở đào tạo chuyên ngữ và không chuyên ngữ) cho khoảng 10% số lượng sinh viên cao đẳng, đại học vào năm học 2010 - 2011; 60% vào năm học 2015 - 2016 và 100% vào năm 2019 - 2020;
d) Đổi mới việc dạy và học ngoại ngữ trong chương trình giáo dục thường xuyên với nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với các cấp học, trình độ đào tạo góp phần tích cực vào công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ, viên chức; thực hiện đa dạng hóa các hình thức học tập, đáp ứng nhu cầu người học.
Phấn đấu có 5% số cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước có trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên vào năm 2015 và đạt 30% vào năm 2020.
II. NHIỆM VỤ
1. Quy định môn ngoại ngữ được dạy và học trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân là tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác.
2. Xây dựng và ban hành khung trình độ năng lực ngoại ngữ thống nhất, chi tiết gồm 6 bậc, tương thích với các bậc trình độ ngoại ngữ quốc tế thông dụng để làm căn cứ biên soạn chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy và xây dựng tiêu chí đánh giá ở từng cấp học, trình độ đào tạo, bảo đảm sự liên thông trong đào tạo ngoại ngữ giữa các cấp học.
Khung trình độ năng lực ngoại ngữ cần xác định rõ yêu cầu về trình độ, năng lực nghe, nói, đọc, viết tương thích với các tiêu chí xác định 6 bậc do Hiệp hội các tổ chức khảo thí ngoại ngữ châu Âu đã ban hành (viết tắt là KNLNN) trong đó bậc 1 là bậc thấp nhất và bậc 6 là bậc cao nhất.
3. Xây dựng và triển khai chương trình mới đào tạo ngoại ngữ bắt buộc ở cấp học phổ thông đạt các bậc trình độ như sau: tốt nghiệp tiểu học đạt trình độ bậc 1 theo KNLNN; tốt nghiệp trung học đạt trình độ bậc 2 theo KNLNN; tốt nghiệp trung học phổ thông đạt trình độ bậc 3 theo KNLNN.
Tổ chức xây dựng các chương trình ngoại ngữ phổ thông 10 năm, bắt đầu từ lớp 3 đến lớp 12, biên soạn sách giáo khoa, tài liệu học tập, giảng dạy, phù hợp với quy định về năng lực trình độ của mỗi cấp, lớp học. Khuyến khích các cơ sở giáo dục chủ động xây dựng, thực hiện các chương trình song ngữ, bồi dưỡng nâng cao trong các cơ sở của mình.
Ngoài chương trình đào tạo môn ngoại ngữ bắt buộc (ngoại ngữ 1), học sinh có thể tự chọn học thêm một ngoại ngữ khác (ngoại ngữ 2). Việc bố trí dạy môn ngoại ngữ 2 chỉ thực hiện từ lớp 6 đến lớp 12 với trình độ đạt tương đương bậc 2 theo KNLNN sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Xây dựng và triển khai các chương trình dạy và học bằng ngoại ngữ cho một số môn như: Toán và một số môn phù hợp ở các trường trung học phổ thông.
4. Triển khai đào tạo theo chương trình ngoại ngữ mới đối với giáo dục chuyên nghiệp (trung cấp và dạy nghề) với mức trình độ tối thiểu đạt được bậc 2 theo KNLNN sau khi tốt nghiệp trường nghề và bậc 3 theo KNLNN sau khi tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
Đối với giáo dục chuyên nghiệp, chương trình đào tạo ngoại ngữ có thể áp dụng theo một số chương trình khác nhau, phù hợp với các đối tượng người học có kiến thức phổ thông hoặc trình độ khác nhau.
5. Triển khai đào tạo theo chương trình ngoại ngữ mới đối với giáo dục đại học. Nội dung chương trình đào tạo ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục đại học có thể áp dụng cho hai nhóm đối tượng chính: một nhóm dành cho các đối tượng người học đã học ngoại ngữ theo chương trình 7 năm ở phổ thông và một nhóm dành cho các đối tượng người học đã học theo chương trình ngoại ngữ 10 năm ở phổ thông.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học không chuyên ngữ, chương trình đào tạo mới phải có mức kiến thức đạt trình độ tối thiểu là bậc 3 theo KNLNN sau khoá tốt nghiệp.
Đối với các cơ sở giáo dục đào tạo chuyên ngữ, chương trình đào tạo mới phải có mức kiến thức đạt trình độ bậc 4 sau khoá tốt nghiệp cao đẳng và bậc 5 sau khoá tốt nghiệp đại học và bắt buộc người học phải đồng thời được đào tạo hai ngoại ngữ trong một khoá đào tạo, một ngoại ngữ chính (ngoại ngữ 1) và một ngoại ngữ phụ (ngoại ngữ 2), trong đó thời lượng đào tạo ngoại ngữ phụ không quá 1/2 thời lượng dành cho việc đào tạo ngoại ngữ chính.
Xây dựng và triển khai chương trình dạy bằng ngoại ngữ một số môn cơ bản, cơ sở chuyên ngành và tự chọn ở một số ngành trọng điểm trong chương trình đại học ở năm cuối bậc đại học.
6. Thực hiện đổi mới chương trình đào tạo ngoại ngữ đối với giáo dục thường xuyên.
Chương trình đào tạo ngoại ngữ áp dụng trong các cơ sở giáo dục thường xuyên phải phù hợp nhu cầu đa dạng phong phú về hình thức, đối tượng, trình độ đào tạo đáp ứng nhu cầu người học, có tác dụng tích cực khắc phục những hạn chế của giáo dục chính quy.
Chương trình đào tạo ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục thường xuyên phải đảm bảo yêu cầu nội dung, chất lượng. Trình độ năng lực ngoại ngữ của người học sau khi tốt nghiệp các cơ sở giáo dục thường xuyên phải đạt tương đương với trình độ đào tạo theo hình thức chính quy tương ứng ở các cấp học, trình độ đào tạo.
7. Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá trong đào tạo ngoại ngữ; xây dựng các dữ liệu ngân hàng câu hỏi, phục vụ cho việc kiểm tra, đánh giá trình độ ngoại ngữ của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo môn ngoại ngữ; nâng cao hiệu quả công tác khảo thí và kiểm định chất lượng đào tạo các môn ngoại ngữ.
III. GIẢI PHÁP
1. Thành lập Ban Chỉ đạo ở Trung ương để chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện Đề án này gồm đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan liên quan, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm Trưởng ban.
2. Tổ chức rà soát, quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tuyển dụng đội ngũ giáo viên, giảng viên trong các cơ sở giáo dục và cả nước, bảo đảm đáp ứng nhu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ đào tạo.
- Tiến hành việc rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ trong các cấp học, nhất là ở các cơ sở giáo dục phổ thông, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên hàng năm và các giai đoạn đến năm 2010, năm 2020, phù hợp với các quy định, tiêu chí hiện hành;
- Triển khai thực hiện các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng giáo viên ngoại ngữ các cấp học, nhằm bổ sung, chuẩn hóa về trình độ đào tạo đội ngũ theo quy định. Mở các khoá bồi dưỡng, cấp chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cho những người đạt trình độ ngoại ngữ theo quy định mà có nguyện vọng được tuyển dụng làm giáo viên, giảng viên dạy ngoại ngữ;
Đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Khuyến khích bồi dưỡng giáo viên qua các khoá tập huấn quốc tế trong nước và nước ngoài, được cấp chứng chỉ quốc tế;
- Nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các trường cao đẳng, đại học đào tạo chuyên ngoại ngữ hiện có; mở rộng việc thành lập các khoa đào tạo ngoại ngữ ở một số trường đại học, cao đẳng có điều kiện bảo đảm, chú trọng xây dựng, phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên ngoại ngữ trình độ cao đẳng, đại học ở các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long;
- Thực hiện đổi mới công tác tuyển sinh đào tạo giáo viên ngoại ngữ theo hướng tăng cường tính tự chủ của các nhà trường trong công tác tuyển sinh đào tạo bồi dưỡng;
- Khuyến khích mạnh mẽ, tạo cơ chế thuận lợi để các trường liên kết, hợp tác giảng dạy, đào tạo, tuyển dụng người Việt Nam ở nước ngoài hoặc người nước ngoài có đủ trình độ ngoại ngữ làm giáo viên dạy ngoại ngữ trong các nhà trường. Nhất là đối với các trường phổ thông chuyên ngữ, dạy các chương trình ngoại ngữ tăng cường, dạy song ngữ. Thu hút sự giúp đỡ, tham gia đào tạo của các tổ chức, đội ngũ giáo viên tình nguyện có chất lượng của những nước nói tiếng Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc.
3. Nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các cơ chế, chính sách chế độ cần thiết, phù hợp, đáp ứng yêu cầu của công tác giảng dạy, học tập ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung những cơ chế, chính sách phù hợp dành cho đội ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ các cấp học, tạo điều kiện thực hiện các chương trình hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục;
- Xây dựng, ban hành các chính sách đầu tư, các tiêu chí xây dựng cơ sở vật chất đối với các cơ sở đào tạo ngoại ngữ;
- Đẩy mạnh công tác xã hội hoá, thu hút sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác dạy và học ngoại ngữ; khuyến khích đầu tư nước ngoài phát triển mở rộng các loại hình cơ sở đào tạo ngoại ngữ;
- Hoàn chỉnh các quy định về việc dạy và học, kiểm tra, đánh giá, cấp văn bằng, chứng chỉ ngoại ngữ; khuyến khích thành lập các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ có chất lượng.
4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ việc dạy và học ngoại ngữ
- Xây dựng danh mục thiết bị tối thiểu phục vụ cho việc dạy và học ngoại ngữ trong các cấp học, trình độ đào tạo; ban hành tiêu chuẩn phòng học tiếng nước ngoài, phòng nghe nhìn và phòng đa phương tiện;
- Từng bước đầu tư mua sắm các thiết bị dạy và học ngoại ngữ phù hợp cho các cơ sở giáo dục theo lộ trình triển khai đề án, bảo đảm 100% các trường tham gia đề án đều có phòng học tiếng nước ngoài và có phòng nghe nhìn;
- Xây dựng và triển khai kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ về công tác sử dụng thiết bị dạy và học ngoại ngữ, bảo đảm tính thiết thực và hiệu quả; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy và học ngoại ngữ ở các nhà trường.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong dạy và học ngoại ngữ
- Dành ưu tiên một phần nguồn vốn viện trợ phát triển giáo dục và đào tạo để đầu tư cho công tác dạy và học ngoại ngữ trong các nhà trường;
- Khuyến khích các cơ sở giáo dục mở rộng, đa dạng hóa các hình thức hợp tác quốc tế với các tổ chức ở các quốc gia có bản ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia phù hợp với việc dạy và học ngoại ngữ ở Việt Nam; thực hiện các chương trình hợp tác, trao đổi giáo viên với nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên người nước ngoài tham gia đào tạo ngoại ngữ trong các trường cao đẳng, đại học của Việt Nam.
Phấn đấu từ nay đến năm 2015 tổ chức được cho 100% số giáo viên ngoại ngữ của các trường cao đẳng, đại học và một bộ phận giáo viên ngoại ngữ của các trường phổ thông, dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp được đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn ngắn hoặc dài hạn ở các nước ngoài.
Xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách về việc hợp tác quốc tế trong giảng dạy, học tập ngoại ngữ; chính sách, chế độ thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia nước ngoài tham gia vào công tác đào tạo ngoại ngữ ở trong nước.
6. Xây dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học ngoại ngữ, tạo động cơ học tập ngoại ngữ của thế hệ trẻ Việt Nam.
- Tăng cường công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức toàn xã hội; nhất là đối với thế hệ trẻ về việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu mới;
- Xây dựng và phát huy mạnh mẽ các môi trường tự học, tự nâng cao trình độ và sử dụng ngoại ngữ của mọi đối tượng;
- Xây dựng các môi trường làm việc có sử dụng ngoại ngữ ở các cơ quan, công sở; gắn yêu cầu về ngoại ngữ trong việc tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức nhà nước; thường xuyên tổ chức bồi dưỡng ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trẻ;
- Duy trì thường xuyên, mở rộng, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, phát thanh dành riêng cho việc dạy và học ngoại ngữ. Sử dụng các kênh có dạy ngoại ngữ của các đài truyền thanh và truyền hình của nước ngoài. Khuyến khích phát hành các loại báo, tạp chí bằng ngoại ngữ; các hoạt động văn hóa, âm nhạc, nghệ thuật, thông tin tuyên truyền, quảng bá có sử dụng ngoại ngữ;
- Khuyến khích phát triển các câu lạc bộ giáo viên ngoại ngữ.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Kế hoạch thực hiện
Đề án được triển khai thực hiện theo ba giai đoạn như sau:
a) Giai đoạn 2008 - 2010: trọng tâm của giai đoạn này là hoàn thành các điều kiện đảm bảo cho việc xây dựng, thí điểm các chương trình ngoại ngữ mới và chuẩn bị để triển khai đại trà ở các cấp học phổ thông. Cụ thể:
- Xây dựng, chi tiết hoá các chương trình đào tạo;
- Xây dựng kế hoạch và bố trí kinh phí thực hiện các mục tiêu đề án trong giai đoạn 2008 - 2010;
- Hoàn thành việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa ở phổ thông theo chương trình 10 năm và chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học cho các trường dạy nghề trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học và giáo dục thường xuyên. Đồng thời triển khai việc lựa chọn, sử dụng một số chương trình, sách giáo khoa, tài liệu dạy học ngoại ngữ của nước ngoài phù hợp với mục tiêu, yêu cầu dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam;
- Hoàn thành việc xây dựng chương trình và tài liệu dạy và học ngoại ngữ tăng cường, chuyên ngữ và song ngữ ở một số môn học của giáo dục phổ thông, một số môn học, ngành học của cao đẳng, đại học;
- Rà soát, đánh giá thực trạng và triển khai các kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ngoại ngữ ở cấp tiểu học và trung học cơ sở để chuẩn bị triển khai các chương trình ngoại ngữ mới ở cấp tiểu học và năm học 2010 - 2011 và trung học phổ thông vào năm học 2012 - 2013 theo kế hoạch;
- Rà soát, đánh giá thực trạng và triển khai các kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ngoại ngữ cho các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, chuẩn bị cho các năm học 2009 - 2010;
- Tăng cường trang thiết bị dạy học, xây dựng phòng học tiếng nước ngoài, phòng nghe nhìn và phòng đa phương tiện cho một số trường học ở các cấp học và trình độ đào tạo;
- Hoàn thành việc xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích, thu hút các công dân Việt Nam giỏi ngoại ngữ và các giáo viên là người Việt Nam ở nước ngoài, các giáo viên bản ngữ, các giáo viên ngoại ngữ do các tổ chức tình nguyện của các nước nói tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc tham gia dạy học ngoại ngữ ở các cấp học;
- Trong năm 2009, các tỉnh, thành phố hoàn thành việc xây dựng kế hoạch triển khai chương trình ngoại ngữ 10 năm của địa phương trong giai đoạn từ 2010 cho đến 2020. Đặc biệt khuyến khích các trường thuộc các thành phố lớn, đô thị, thị xã, thị trấn và các trường tiểu học đã thực hiện dạy theo chế độ 2 buổi/ngày tham gia chương trình ngay từ giai đoạn ban đầu. Các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học không chuyên ngữ và chuyên ngữ hoàn thành kế hoạch triển khai việc dạy và học ngoại ngữ tăng cường của trường trong giai đoạn từ 2009 cho đến 2020;
- Hoàn thành việc xây dựng và ban hành chính sách xây dựng môi trường làm việc, văn hóa, thông tin theo hướng hỗ trợ sử dụng thường xuyên và hiệu quả ngoại ngữ, nâng cao động lực học ngoại ngữ trong thế hệ trẻ;
- Trong năm 2009 - 2010 triển khai đào tạo theo các chương trình tiên tiến giảng dạy bằng tiếng Anh ở bậc đại học;
- Từ 2009 tiến hành thí điểm chương trình 10 năm ở phổ thông và chương trình ngoại ngữ tăng cường cho các cơ sở đào tạo.
b) Giai đoạn 2011 - 2015: trọng tâm của giai đoạn này là triển khai đại trà chương trình ngoại ngữ 10 năm ở phổ thông và chương trình dạy và học ngoại ngữ tăng cường đối với các bậc, trình độ đào tạo.
- Tiếp tục tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo;
- Tiếp tục xây dựng các phòng dạy và học ngoại ngữ, phòng nghe nhìn và học đa phương tiện cho các trường học các cấp;
- Từ năm học 2010 - 2011: triển khai chương trình ngoại ngữ 10 năm theo các mục tiêu đề ra cho các cấp học phổ thông;
- Triển khai dạy và học ngoại ngữ tăng cường ở các cơ sở đào tạo, ưu tiên cho các ngành công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng, du lịch và quản trị kinh doanh;
- Triển khai dạy môn Toán bằng ngoại ngữ ở khoảng 30% các trường trung học phổ thông tại các thành phố, đô thị lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng và một số địa bàn trọng điểm khác. Mỗi năm tăng thêm khoảng từ 15 - 20% số trường, mở rộng ra 5 tỉnh, thành phố và một số môn học khác;
- Triển khai chương trình dạy bằng ngoại ngữ một số môn cơ bản, chuyên ngành và chuyên sâu ở một số ngành trọng điểm ở năm cuối bậc đại học, bắt đầu với khoảng 20% sinh viên của các Đại học quốc gia, Đại học vùng và một số trường đại học trọng điểm khác và tăng dần tỷ lệ hàng năm, mở rộng dần đối với số trường và địa phương.
c) Giai đoạn 2016 - 2020: trọng tâm của giai đoạn này là triển khai chương trình ngoại ngữ 10 năm trên quy mô cả nước và triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ tăng cường đối với tất cả các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp cao đẳng và đại học.
- Tiếp tục tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo;
- Tiếp tục xây dựng các phòng dạy và học ngoại ngữ, phòng nghe nhìn và phòng học đa phương tiện cho các trường học các cấp;
- Triển khai chương trình 10 năm đối với 100% học sinh lớp 3 trong cả nước;
- Triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ tăng cường đối với tất cả các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học trong cả nước.
2. Kinh phí và nguồn vốn thực hiện đề án
- Kinh phí dự toán để thực hiện dự án giai đoạn 2008 - 2010 là 1.060 tỷ đồng, giai đoạn 2011 - 2015 là 4.378 tỷ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 là 4.300 tỷ đồng, tổng cộng là 9.378 tỷ đồng.
- Vốn từ ngân sách nhà nước được bố trí trong chương trình mục tiêu quốc gia và dự toán phi thường xuyên hàng năm theo phân cấp quản lý quy định tại Luật Ngân sách hiện hành;
- Các nguồn vốn vay, tài trợ và các nguồn vốn hợp pháp khác.
3. Trách nhiệm của các Bộ, ngành, cơ quan
a) Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chủ trì đề án có trách nhiệm:
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan, các địa phương cụ thể hoá nội dung Đề án thành các chương trình, kế hoạch thực hiện chi tiết để chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp kết quả triển khai thực hiện Đề án trong phạm vi cả nước theo hằng năm và từng giai đoạn, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành để chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án gồm đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan liên quan, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm Trưởng ban;
- Phối hợp với Bộ Nội vụ sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về định mức biên chế giáo viên, giảng viên ngoại ngữ; các cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng, quản lý việc dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân;
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn triển khai công tác bồi dưỡng ngoại ngữ, thường xuyên cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
b) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Đề án trong lĩnh vực dạy nghề, phù hợp với lộ trình, kế hoạch triển khai chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì hướng dẫn.
c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm:
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổng hợp các kế hoạch triển khai hoạt động và đầu tư thực hiện Đề án theo hàng năm và từng giai đoạn để đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định;
- Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, xây dựng các kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước để thực hiện Đề án.
d) Bộ Tài chính có trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan liên quan phân bổ, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc chi kinh phí thực hiện Đề án theo các quy định hiện hành của Luật Ngân sách nhà nước.
đ) Bộ Nội vụ có trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, hướng dẫn, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng định mức biên chế giáo viên, giảng viên ngoại ngữ phù hợp trong hệ thống giáo dục quốc dân.
e) Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm:
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ quan thông tin truyền thông tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức toàn xã hội về các chương trình đổi mới công tác giáo dục, đào tạo ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu mới; tạo môi trường văn hoá, điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học ngoại ngữ.
g) Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
- Chỉ đạo ngành giáo dục và đào tạo, các cơ quan chức năng ở địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch triển khai Đề án trên địa bàn; kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp kết quả thực hiện Đề án tại địa phương, định kỳ báo cáo Ban Chỉ đạo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan Trung ương để chỉ đạo thống nhất, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu, kế hoạch chung toàn quốc việc triển khai thực hiện Đề án này trên địa bàn.
h) Các cơ sở giáo dục có trách nhiệm:
- Quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các hoạt động liên quan đến công tác đào tạo ngoại ngữ trong cơ sở mình, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ Đề án đã đặt ra;
- Tích cực, chủ động triển khai các nhiệm vụ trong thẩm quyền mà Đề án đã giao.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Thiện Nhân